Phân tích về bài thơ tiểu đội xe không kính – Ngữ Văn 9

Phạm Tiến Duật (1941 -2007) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ của ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử, tiêu biểu là bài thơ " bài thơ tiểu đội xe không kính" ra đời năm 1969 khi cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang diễn ra ác liệt. Qua việc khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính nhà thơ làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.

Mở bài:

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Thơ ông đậm chất lính. Những trang thơ tác giả viết về người lính thường có giọng điệu ngang tàn, tinh nghịch mà sâu sắc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật ấy. Nhà thơ đã xây dựng hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra trận để làm nổi bật vẻ đẹp người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn,một thời khói bom đạn lửa.

II,Thân bài:

Khái quát (Dẫn dắt vào bài):

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ sáng tác vào năm 1969 – đây là thời điểm gay go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó là tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào

trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung, tự tại, lạc quan, sôi nổi, bất chấp gian khổ hi sinh, tình đồng đội gắn bó và tình yêu đất nước lớn lao.

Phân tích:

Ngay từ những dòng thơ mở đầu, người lính lái xe đã giới thiệu về những chiếc xe đặc biệt của mình:

“Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.

Cái hay của câu thơ không chỉ ở nhạc điệu mà còn ở cách nói rất dí dỏm với những lời lẽ tự nhiên, mộc mạc. Ba chữ “không” đi liền nhau cùng động từ “giật”,”rung” khiến câu thơ có cái ngang tàn như lời nói thường, nhưng chứa đựng trong đó là cái nhìn lạc quan của người lính lái xe về sự ác liệt của chiến tranh. Nhà thơ – người lính như đang phân bua, như đang giải thích một cách tinh nghịch cho sự không trọn vẹn của những chiếc xe:

“Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe,thùng xe có xước”.

Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế ung dung của những người lính lại được thể hiện rõ nét:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung dung” lên đầu câu, dường như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn cảnh  cảnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất như một lời thề. Chữ “nhìn thẳng”khiến ta hình dung như họ đang đối mặt thẳng thắn với gian khổ, hi sinh mà không hề né tránh, không hề run sợ. Không có kính chắn gió, người lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:

“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như “gió” – “con đường”,”sao trời”,”cánh chim”… đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo, ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao! Tâm hồn lãng mạn đã thăng hoa trong bội bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh chim bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn. Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của cánh chim trời. Cánh chim được nghệ thuật hóa, để rồi được nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là “Đường ra trận mùa này đẹp lắm! Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”. Có thể nói, người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái nhìn bình thản. Con đường chạy thẳng vào tim mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trường Sơn xe đang đi mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ Việt Nam đã mang cả tuổi thanh xuân,  máu xương của mình để giữ  gìn, bảo vệ; đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện thực.

  • Vẻ đẹp trong hình tượng người lính lái xe còn được nhà thơ khắc họa cụ thể khi đối mặt với những khó khăn, gian khổ - không chỉ là gió, mà còn là mưa, bụi Trường Sơn:

“Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng,gió lùa khô mau thôi”.

Lặp cấu trúc câu, cùng với điệp ngữ “ừ thì”,”chưa cần”… nhà thơ đã đem đến cho đoạn thơ giọng điệu ngang tàn, giàu thách thức. Những câu thơ tả thực, những cái “ừ” bất chấp nhưng không hề lộ ra là cẩu thả, luộm thuộm. Hẳn đó là nhờ chất lính, dẫu mưa có tuôn, có xối, dẫu bụi có phun bạc trắng mái đầu thì người lính vẫn “chưa cần thay”,”chưa cần rửa” để lái trăm cây số nữa. Thật là biết đùa cùng gian khó! Giọng thơ đã thể hiện trọn vẹn thái độ bất chấp khó khăn, coi thường hiểm nguy của người lính lái xe. Với họ, những gian khổ khi lái xe không kính ra trận chẳng hề hấn gì. Hai khổ thơ đầy ắp chi tiết hiện thực qua cách dùng từ “xối”,”tuôn”,”phun”. Đó là những gian khổ rất thực như một kiểu hút thuốc phì phèo, một tiếng cười ha ha sảng khoái, một mái đầu bụi phun tóc trắng. Tất cả thể hiện sự bất chấp cuộc sống đầy gian khó bằng niềm vui sôi nổi, trẻ trung và bằng tinh thần lạc quan của người lính lái xe những năm chống Mỹ.

  • Một nét đẹp trong hình ảnh người lính lái xe trên đường ra trận là tình đồng chí, đồng đội gắn bó:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Tình cảm của những người lính trẻ được nhà thơ diễn tả rất đúng, rất phù hợp với phong cách của họ. Sau những chặng đường đầy gian khổ,đầy mất mát hy sinh, họ đã cùng nhau họp thành tiểu đội xe không kính. Cái bắt tay của họ rất độc đáo – “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” – một cái bắt tay mang đầy ý nghĩa. Nó là biểu tượng của niềm tin thắng trận, là lời chúc, lời chào,niềm vui và niềm tự hào. Ở đây, nhà thơ đưa ra một khái niệm hết sức mới mẻ về gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Đó là gia đình của những con người cùng chung chí hướng, cùng chung nhiệm vụ. Rõ ràng, những người lính thương yêu nhau như tình ruột thịt. Từ nơi chiến trường ác liệt, họ đã làm thành một gia đình,tạm nghỉ bên nhau, và quây quần trong bữa cơm hội ngộ, để rồi:

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm”.

Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3, như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính lái xe trên đường ra trận. Từ “chông chênh” gợi lên tư thế của người lính, họ vừa đi vừa có người ngủ trên xe, vừa có người chạy xe để xe được chạy liên tục. Từ “chông chênh” giàu sức gợi như tạo hình cho giấc ngủ của người lính. Điệp từ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” khẳng định những người lính như không ngừng tiến tới, không ngừng ra đi vì bầu trời xanh bình yên phía trước, vì viễn cảnh rộng lớn hơn.

  • Vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe được nhà thơ hoàn thiện trong sự hài hòa với hiện thực cuộc sống chiến đấu, hài hòa giữa chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn:

“Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe,thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Ba chữ “không” lại một lần nữa khẳng định mức độ ác liệt của cuộc chiến in dấu trên những chiếc xe ra trận: “không kính”,”không đèn”,”không mui” và lại có thêm cái xước. Phép liệt kê cho thấy bom đạn của giặc Mỹ đã làm biến dạng, làm méo mó, làm trơ trụi những chiếc xe ra trận. Song đối lập với những cái “không” ấy là một cái “có” – “Có một trái tim” ở trong xe. “Trái tim”là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng, đó chính là người chiến sĩ lái xe, là sức mạnh và tinh thần quả cảm, là  nhiệt huyết của tuổi trẻ, là ý chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu Tổ quốc thiết tha. Hình ảnh này đã khẳng định: khi trái tim cầm lái thì mọi gian khổ, hiểm nguy đều được người lính chấp nhận và vượt qua với tư thế ung dung và niềm vui sôi nổi, lạc quan phơi phới. Hình ảnh này cũng khẳng định bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy được những chiếc xe chứ không thể ngăn cản được nhiệt huyết cứu nước của những con người: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).

Ý kiến đánh giá, bình luận:

  • Chân dung người lính lái xe Trường Sơn được nhà thơ khắc họa chân thực trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với bao phẩm chất cao đẹp. Đó là vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chốngMỹ. Họ là những chiến binh, sống, chiến đấu và chiến thắng trong tư thế hiên ngang, trong niềm lạc quan yêu đời.

III.Kết bài:

-Viết theo thể thơ tự do, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vừa có chất tự sự,vừa thấm đẫm chất trữ tình. Với ngôn ngữ chân thực, đời thường và giọng điệu thơ ngang tàn, hóm hỉnh, bài thơ đã đem đến cho người đọc ấn tượng không thể nào quên về vẻ đẹp của người lính cách mạng. Vẻ đẹp ấy làm sống lại trong mỗi chúng ta một thời gian khổ và hào hùng của dân tộc những năm chống Mỹ.