Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc, ví dụ và ý nghĩa của giá trị thặng dư

Hiểu rõ nỗi băn khoăn của độc giả, Wikihoidap.org gửi đến bạn đọc nguồn thông tin hữu ích liên quan đến giá trị thặng dư, tất cả đều được trình bày trong bài viết dưới đây.

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã kéo theo quá trình phát triển trong sản xuất, lưu thông hàng hóa. Chính tại đây, giá trị thặng dư xuất hiện như điều kiện tồn tại, mục tiêu phát triển của hệ thống tư bản.

Do đó, thuật ngữ giá trị thặng dư đóng vai trò quan trọng trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực mà đặc biệt là kinh tế. Tuy nhiên, thuật ngữ này vẫn còn khá trừu tượng và mơ hồ với đa số người dân.

Hiểu rõ nỗi băn khoăn của độc giả, Kinhcan.vn gửi đến bạn đọc nguồn thông tin hữu ích liên quan đến giá trị thặng dư, tất cả đều được trình bày trong bài viết dưới đây.

1. Giá trị thặng dư là gì?

Trước khi tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc, bản chất, vai trò hay ý nghĩa, độc giả cần nắm được khái niệm cơ bản về giá trị thặng dư.

1.1. Định nghĩa giá trị thặng dư

Tạo ra bởi công nhân hay người lao động, giá trị thặng dư là mức độ dôi ra, vượt khỏi giá trị sức lao động. Bị chiếm dụng bởi nhà tư bản, giá trị thặng dư tạo nên nguồn lợi, thu nhập cho giai cấp bóc lột hay người chủ lao động.

Khi xem xét học thuyết C. Mác, tầm quan trọng của lý thuyết về giá trị thặng dư được ví như “hòn đá tảng” trong lý luận kinh tế - chính trị bởi nhà triết học này.

Là phát kiến vĩ đại nhất của nhà tư tưởng C. Mác, học thuyết về giá trị thặng dư đã làm sáng tỏ bản chất, nguồn gốc của mối quan hệ sản xuất trong môi trường tư bản.

Khi sức lao động chuyển thành hàng hóa, tiền tệ sẽ mang hình thái của tư bản và xuất hiện mối quan hệ mới trong sản xuất: quan hệ giữa người lao động và nhà tư bản. Mối quan hệ này bản chất là sự chiếm đoạt giá trị thặng dư.

Như vậy, người chủ lao động hay nhà tư bản bóc lột người lao động hoặc công nhân càng nhiều thì giá trị thặng dư sẽ càng cao.

1.2. Ví dụ giá trị thặng dư

Để hiểu rõ khái niệm giá trị thặng dư đề cập ở trên, bạn đọc hãy cùng Kinhcan.vn phân tích ví dụ dưới đây.

Giả định rằng việc sản xuất 10kg sợi cần lượng bông tương ứng là 10kg, trong đó giá tiền 10kg bông được quy vào 10 đô. Để chuyển từ bông sang sợi, một công nhân cần làm việc trong thời gian 6 giờ với hao mòn chi phí máy móc là 2 đô.

Trong một ngày, giá trị sức lao động của công nhân được quy vào 3 đô, vì vậy một giờ sẽ là 0.5 đô. Ngoài ra, bổ sung thêm giả thuyết hao phí thời gian lao động xã hội cần thiết trong quá trình thực hiện sản xuất sợi.

Như vậy, nếu quá trình thực hiện lao động kéo dài tới thời điểm mà ở đó vừa đủ để bù đắp giá trị sức lao động của người làm (6 giờ), hay là bằng với thời gian lao động cần thiết thì giá trị thặng dư chưa được sản xuất và tiền không biến thành tư bản.

STT

Chi phí sản xuất

Giá trị sản phẩm

1

Tiền mua bông tính là 20 đô la

Giá trị bông chuyển thành sợi tính là 20 đô la

2

Chi phí hao mòn máy móc tính là 4 đô la

Giá trị máy móc chuyển thành sợi tính là 4 đô la

3

Tiền mua sức lao động trong vòng một ngày sẽ được tính là 3 đô la

Giá trị lao động do công nhân tạo ra trong vòng 12h lao động tính là 6 đô la

Tổng cộng

27 đô la

30 đô la

So sánh với 27 đô la chi phí mua sức lao động và tư liệu sản xuất trong 12 giờ, nhà tư bản thu được sản phẩm mới có giá trị 30 đô la, trong đó 3 đô la dôi ra chính là giá trị thặng dư.

2. Nguồn gốc của giá trị thặng dư

Theo tư tưởng C. Mác, giá trị sử dụng hàng hóa được tạo ra từ kết quả lao động cụ thể. Khi ấy, lao động cụ thể nghĩa là hao phí lao động qua hình thức cụ thể như nghề nghiệp, chuyên môn nhất định với điểm riêng về mục đích, phương tiện, đối tượng, thao tác và kết quả.

Trong nền sản xuất hàng hóa, tính hai mặt ở lao động biểu hiện qua sự mâu thuẫn giữa lao động xã hội với lao động tư nhân của những người tham gia sản xuất hàng hóa. Điều này mang tới kết luận của C.Mác:

“Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông mà cũng không xuất hiện ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông.”

Nhằm giải quyết mâu thuẫn ấy, vị triết gia đã khám phá nguồn gốc khai sinh ra giá trị của hàng hóa, đó chính là sức lao động.

3. Bản chất của giá trị thặng dư

Để xác định bản chất của giá trị thặng dư, C.Mác đã chia tư bản ra thành hai bộ phận chính gồm tư bản khả biến và tư bản bất biến, chi tiết như sau:

- Tư bản bất biến chính là một bộ phận tư bản tồn tại, xuất hiện dưới hình thái, dáng vẻ của tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo đảm giữ nguyên và chuyển đổi vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng sau quá trình sản xuất. Tư bản bất biến được ký hiệu bằng “c”.

- Tư bản khả biến là một bộ phận tư bản biểu hiện, bộc lộ dưới hình thức là giá trị của sức lao động sau quá trình sản xuất, có xuất hiện lượng tăng thêm nhất định. Tư bản khả biến được ký hiệu bằng “v”.

Từ đó, kết luận rút ra là giá trị hàng hóa sẽ bằng tổng cộng giá trị tư bản bất biến và giá trị tư bản khả biến. Như vậy, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện lên rất rõ ràng.

4. Vai trò của giá trị thặng dư

Ở bất kỳ thời điểm hay xã hội nào, việc gia tăng giá trị thặng dư vẫn là điều mà con người mong muốn, nỗ lực để đạt được. Cùng sự phát triển của công nghệ hay thiết bị, nguồn tri thức của con người cũng được áp dụng hợp lý, linh hoạt vào các công đoạn hay quá trình kinh doanh sản xuất.

Nhờ đó, giá trị thặng dư được nâng lên mức tối đa mà không cần sử dụng đến phương pháp kéo dài cường độ lao động hay thời gian lao động, sức khỏe người lao động cũng vì vậy được đảm bảo hơn trước kia.

5. Ý nghĩa của giá trị thặng dư

Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu phương thức sản xuất trong chủ nghĩa tư bản, học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác đã vạch trần, chỉ ra xu hướng bóc lột của nhiều nhà tư bản cũng như mâu thuẫn kinh tế giữa giai cấp vô sản và tư sản.

Mang ý nghĩa thực tiễn, học thuyết giá trị thặng dư đặc biệt quan trọng với hành trình xây dựng, đổi mới và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu tận dụng lý thuyết một cách đúng đắn, điều đó sẽ góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như nâng cao đời sống xã hội ở nước ta.

6. Những yếu tố tác động đến giá trị thặng dư

Trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư, nhà tư bản phải đối mặt với những yếu tố ảnh hưởng như tiền vốn, thiết bị, máy móc, trình độ quản lý, công nghệ sản xuất, cường độ lao động, thời gian lao động và năng suất lao động.

7. Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư

Để sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản vận dụng hai phương pháp chính là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

7.1. Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp kéo dài thời gian lao động sao cho đáp ứng đầy đủ  năng suất lao động, trong đó thời gian lao động hay giá trị lao động đều không thay đổi.

7.2. Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối chính là phương pháp rút ngắn, giảm bớt thời gian lao động tất yếu thông qua hình thức, phương pháp hạ thấp giá trị của sức lao động và gia tăng thời gian lao động thặng dư, trong đó cường độ lao động hay điều kiện ngày lao động đều giữ nguyên.

7.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch

Ứng dụng thành tựu khoa học vào quá trình sản xuất, nhà tư bản thu được giá trị thặng dư lớn hơn, đồng thời chiếm ưu thế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh.

Là lượng giá trị thặng dư thu về trội hơn giá trị thặng dư bình thường, giá trị thặng dư siêu ngạch được coi như hiện tượng tạm thời khi xét trên từng đối tượng tư bản đơn lẻ. Nếu xét trong phạm vi toàn xã hội, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ trở th��nh một hiện tượng tồn tại thường xuyên.

Chính vì vậy,  giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao kỹ thuật hay máy móc của nhà tư bản, qua đó làm tăng năng suất lao động.

Dù sở hữu chung mục tiêu là tăng năng suất lao động, giá trị thặng dư siêu ngạch khác với giá trị thặng dư tương đối ở chỗ nó dựa vào thúc đẩy, làm tăng năng suất lao động cá biệt chứ không phải năng suất lao động xã hội.

8. Cách đo lường giá trị thặng dư

Căn cứ vào nội dung giá trị thặng dư, công thức đo lường hay tính toán liên quan đến phạm trù này được tổng hợp như sau:

GT = C + V + m => m = GT - (C+V)

Trong đó:

- GT là giá thành của sản phẩm khi quá trình sản xuất đã hoàn tất.

- C là tư bản bất biến được trong giá trị của hàng hóa sản xuất.

- V là tiền công nhà tư bản bỏ ra để mua lại sức lao động của con người.

- m là lượng giá trị tăng thêm, dôi ra của hàng hóa hay còn gọi là giá trị thặng dư.

LỜI KẾT

Trên đây là những thông tin quan trọng về giá trị thặng dư, Kinhcan.vn hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho độc giả trong học tập lẫn cuộc sống. Nếu bạn đọc còn thắc mắc gì, đừng ngại ngần liên hệ với đội ngũ giáo viên tuyệt vời của Kinhcan.vn nhé!