Phân tích nét cổ điển và hiện đại trong Chiều tối của Hồ Chí Minh

Tuy văn chương không phải là sự nghiệp chính của cuộc đời nhưng với di sản thơ ca phong phú để lại cho đương thời và hậu thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa lớn không chỉ của Việt Nam mà của toàn nhân loại. Rất nhiều bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn Đường luật, trong đó sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của thơ Người. Điều đó thể hiện rõ nét qua nhiều bài thơ, tiêu biểu là bài “Mộ” - “Chiều tối” rút từ tập “Nhật ký trong tù”, tập thơ sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị giam cầm tại nhà lao của chính quyền Tưởng Giới Thạch từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.

BÀI MẪU PHÂN TÍCH SỐ 1:

Chiều tối chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ thất ngôn song đã cho thấy tâm hồn vô cùng cao đẹp và tài năng văn chương của Bác. Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa mới mẻ.

Tuy văn chương không phải là sự nghiệp chính của cuộc đời nhưng với di sản thơ ca phong phú để lại cho đương thời và hậu thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa lớn không chỉ của Việt Nam mà của toàn nhân loại. Rất nhiều bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn Đường luật, trong đó sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của thơ Người. Điều đó thể hiện rõ nét qua nhiều bài thơ, tiêu biểu là bài “Mộ” - “Chiều tối” rút từ tập “Nhật ký trong tù”, tập thơ sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị giam cầm tại nhà lao của chính quyền Tưởng Giới Thạch từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.

Nói đến màu sắc cổ điển trong thơ là nói đến những yếu tố về nội dung và thi pháp có sự ảnh hưởng rõ nét của thơ phương Đông – chủ yếu là thơ Đường Trung Quốc, vốn được coi là mẫu mực về đề tài, thể loại, bút pháp, thi liệu. Do đâu thơ Hồ Chí Minh lại đậm đà chất cổ điển? Bác vốn xuất thân từ một gia đình Nho học. Ông ngoại và phụ thân của Bác vốn là những bậc túc nho nổi tiếng đương thời nên người con ưu tú của gia đình, con người Việt Nam đẹp nhất ấy đã tiếp thu, kết tinh được vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa cổ phương Đông. Với tâm hồn phong phú, trí tuệ anh minh, lại giỏi chữ Hán và am hiểu sâu sắc thơ Đường, thơ Người vì thế đậm đà chất cổ điển. Điều đó được thể hiện: giàu cảm hứng với thiên nhiên, bút pháp chấm phá như ghi lấy linh hồn của tạo vật, ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc ý tại ngôn ngoại. Bên cạnh đó, đã sống và làm việc, tiếp xúc với văn minh phương Tây, hồn thơ ấy rất sáng tạo và hiện đại, biểu hiện ở: tính chất dân chủ của đề tài, hình tượng thơ luôn vận động khỏe khoắn hướng về ánh sáng và tương lai, chủ thể trữ tình hòa hợp với thiên nhiên nhưng không là ẩn sỹ mà là chiến sỹ. Điều đáng nói là chất cổ điển và hiện đại luôn hài hòa trong thơ của Hồ Chí Minh mà bài thơ Chiều tối là một sáng tác tiêu biểu.

Trong bài, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Hình ảnh tuy mang dáng dấp của thi liệu thơ cổ nhưng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân vật trữ tình lại hoàn toàn hướng về ánh sáng, hướng tới thiên nhiên và cuộc sống con người. Hai câu thơ đầu mở ra không gian cảnh núi rừng khi chiều tối:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)”

Cảnh được gợi lên qua bút pháp ước lệ quen thuộc của thơ cổ đồng thời nói lên thật đúng hoàn cảnh của Bác và mang những nét mới. Người đọc có thể hình dung cảnh người tù đang bị áp giải ngẩng mặt lên trời quan sát cảnh vật, nhận ra cánh chim bay và chòm mây trôi ngang qua bầu trời. Cảnh đó phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh. Nửa đầu bài tứ tuyệt này, người đọc được chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên có đường nét cánh chim bay tìm về tổ, có hình ảnh chòm mây trôi lững lờ. Những hình ảnh này xuất hiện thật tự nhiên, vừa song hành vừa đăng đối. Không có một chữ nào chỉ thời gian nhưng người đọc cảm nhận ngay được thời gian lúc này là chiều muộn. Chỉ bằng mấy nét chấm phá, tả rất ít nhưng lại gợi nhiều, tác giả tái hiện được cả linh hồn của cảnh vật: Cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ với dáng điệu mỏi mệt và đám mây lẻ loi trôi chầm chậm giữa lưng trời. Nghệ thuật đối ngẫu, một nét đặc trưng của thơ cổ, càng làm nổi bật dáng chim nhỏ nhoi và vũ trụ rộng lớn lúc hoàng hôn. Cánh chim ấy dường như mang bóng tối đang phủ dần lên cảnh vật. Câu thơ mang đậm phong vị cổ thi. Bởi khi tả cảnh chiều tối, các thi nhân xưa vẫn thường dùng hình ảnh cánh chim. Nguyễn Du, ngôi sao sáng chói trong bầu trời thơ ca Việt Nam thời Trung đại, trong kiệt tác Truyện Kiều đã viết: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Và Bà Huyện Thanh Quan, bậc nữ lưu tài danh của dân tộc sống ở thế kỷ XIX, trong thi phẩm “Chiều hôm nhớ nhà” cũng viết: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Những áng cổ thi ấy đều dùng cánh chim tả cảnh chiều tà buồn vắng, hiu quạnh. Lý Bạch, bậc Tiên thi đời Đường ở Trung Quốc khi tả không gian trong bài Độc tọa Kính Đình sơn đã viết: “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn” nghĩa là: Các loài chim bay cao hết/ Đám mây cô đơn nhàn hạ trôi. Cánh chim của Lý Bạch xưa dường như bay vút vào không gian, như tan biến vào cõi vĩnh hằng. Còn cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng thái từ bay sang ngơi nghỉ để rồi lại tiếp tục chu trình tuần hoàn của sự sống. Còn hình ảnh chòm mây trôi nhẹ, lời thơ Nam Trân dịch đã uyển chuyển linh hoạt nhưng vẫn chưa lột tả được chữ “cô vân” – đám mây lẻ loi và chưa thể hiện được ý nghĩa của từ láy “mạn mạn” trong nguyên tác. Điều đó chứng tỏ ngôn ngữ thơ Hồ Chí Minh vô cùng hàm súc. Ở đây, cánh chim bay mỏi và chòm mây cô đơn dường như mang theo cả nỗi lòng của tác giả, một người tù đang bị đày ải “giải tới giải lui” khắp mười ba huyện ở tỉnh Quảng Tây, nơi đất khách quê người lạ lẫm - có hôm tới 53 cây số một ngày – phía trước lại là một nhà tù khác đang chờ đón. Thế nhưng tác giả không san sẻ cho cảnh vật nỗi niềm buồn đau của cảnh ngộ mình đang phải từng trải. Trái lại, Người đã quên mình để sẻ chia, đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên tạo vật xung quanh. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một phong thái ung dung của một con người đang khao khát tự do, tuy bị mất tự do nhưng vẫn làm chủ mình, làm chủ hoàn cảnh ở mọi tình huống. Cũng chính điều này còn cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Hồ Chí Minh ẩn chứa và hòa hợp ngay trong những thi liệu thơ đậm chất cổ điển.

Phần sau của bài thơ đã tiếp nối mạch thơ ở phần trên thật tự nhiên, tái hiện bức tranh lao động và sinh hoạt thường nhật của con người nơi xóm núi.

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)”

Nếu bức tranh thiên nhiên phần đầu bài thơ có phần ảm đạm, buồn vắng quạnh thì phần thơ cuối này hoàn toàn ngược lại: Cô gái xóm núi xay ngô bên bếp lửa đã toát lên một vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung và ấm áp. Điều thú vị là tác giả đã dùng nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy ánh sáng của lò than để nói về bóng tối của không gian vùng sơn cước lúc màn đêm buông xuống. Trời không tối, làm sao thấy được hình ảnh “lô dĩ hồng”. Hình ảnh thơ này thật bình dị và cũng rất sáng tạo, thể hiện nét mới, chất hiện đại của bài thơ. Hơn nữa trong bài, hình tượng thơ không tĩnh tại như thường gặp trong thơ cổ mà có sự vận động hướng về ánh sáng, về tương lai. Bài thơ rất phong phú về sự vận động: vận động của cánh chim, vận động của chòm mây, vận động của con người đang làm việc hăng say. Và ngay cả thời gian trong bài cũng vận động từ chiều muộn cho đến tối hẳn. Tâm trạng nhân vật trữ tình cũng có sự vận động: từ mỏi mệt, lẻ loi, lạnh lẽo sang vui tươi, ấm nồng cùng cảnh vật và con người. Cách miêu tả và quan sát trong bài của tác giả từ hướng ngoại sang hướng nội, từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Trong thi phẩm, chữ “hồng” chính là nhãn tự, là điểm sáng của cả bài thơ có sức lan tỏa lớn. Lô dĩ hồng đã diễn tả được thời gian vận động rất tự nhiên của cảnh vật. Sắc hồng của lò than đang đượm đã xua đi bóng đêm và sự lạnh lẽo của núi rừng lúc chiều tối, lan tỏa hơi ấm ra xung quanh, nhân lên niềm vui, niềm lạc quan của con người, nó củng cố và mài sắc thêm ý chí của người chiến sỹ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã nơi xa xứ. Nghệ thuật ở hai câu cuối bài còn có một nét đặc sắc khác rất đáng lưu ý. Giữa câu thơ thứ ba và câu bốn có những cụm từ lặp lại theo hình thức đảo ngược: “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn”. Hình thức này đã tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên sự luân chuyển của thời gian tuần tự.

Trước cảnh vật và cuộc sống con người nơi xóm núi, trong lòng tác giả dâng lên dạt dào cảm xúc. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: tha thiết yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người. Hai câu thơ sau khiến người đọc vô cùng cảm động bởi đã ghi lại cảnh sinh hoạt quen thuộc, bình dị của một gia đình nơi xóm núi. Điều đó chứng tỏ trong hành trình hoạt động cách mạng, toàn tâm toàn trí vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân, nhưng trong trái tim Bác Hồ vẫn có một khoảng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Người ở hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “ Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”.

Chiều tối chỉ vẻn vẹn bốn câu thơ thất ngôn song đã cho thấy tâm hồn vô cùng cao đẹp và tài năng văn chương của Bác. Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa mới mẻ. Đây cũng chính là một trong những yếu tố làm nên đặc sắc nghệ thuật thơ Đường luật của Hồ Chí Minh - con người của tương lai ấy - luôn hướng về thiên nhiên, cuộc sống, con người với sự đồng cảm và trân trọng “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu).

BÀI MẪU PHÂN TÍCH SỐ 2:

Tập Nhật kí trong tù được sáng tác trong quãng thời gian đặc biệt nhạy cảm đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đó là thời điểm người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và đày ải đi khắp các nhà lao. Vì vậy, trong tập nhật ký, có nhiều bài nói về chuyện đi đường, cảnh chuyển lao, khi sáng sớm, lúc chiều tối, khi đi thuyền, khi đi bộ…trong bất cứ hoàn cảnh nào thì bài thơ giải tù cũng làm ngời lên vẻ đẹp thơ Bác và vẻ đẹp tâm hồn Bác. Bài thơ Chiều tối thuộc trong số những bài thơ nói trên nhưng có một vẻ đẹp riêng. Đó là tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, lạc quan và nhân hậu. Bài thơ cũng thể hiện vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh mà nổi bật là sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại.

Ở bài thơ Chiều tối, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Tuy mang dáng dấp của những hình ảnh trong thơ cổ nhưng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân vật trữ tình lại hoàn toàn hướng về ánh sáng, hướng tới thiên nhiên và cuộc sống con người.

Hai câu thơ đầu mở ra không gian là cảnh núi rừng khi chiều tối:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cảnh được gợi lên với bút pháp ước lệ quen thuộc trong thơ cổ đồng thời lại nói lên được đúng hoàn cảnh của Bác, mang những nét vẽ hiện đại. Vẽ lên nền trời chiều đang chuyển hình ảnh cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ là bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ xưa. Trong thơ cổ khi viết về buổi chiều, các tác giả thường điểm xuyết bằng hình ảnh cánh chim để gợi nỗi buồn hiu quạnh, lấy không gian để gợi tả thời gian. Chúng ta từng bắt gặp cánh chim trong ca dao xưa: “Chim bay về núi tối rồi”; cánh chim bay mỏi trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”hay cánh chim thoi thót trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Chim hôm thoi thót về rừng”.

Tuy sử dụng bút pháp ước lệ của thơ cổ nhưng hai câu thơ đầu bài Chiều tối vẫn nói đúng hoàn cảnh riêng của Bác. Người đọc có thể hình dung cảnh người tù bị áp giải quan sát cảnh vật, ngẩng mặt lên trời nhận ra hình ảnh cánh chim bay mỏi mệt và chòm mây trôi ngang qua bầu trời. Cảnh phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh. Điều này được thể hiện rõ trong nguyên bản chữ Hán: “Cô vân mạn mạn độ thiên không” (Một chòm mây đơn lẻ chậm chạp trôi ngang qua bầu trời). Bản dịch không lột tả được hai chữ “mạn mạn”. Câu thơ dịch “chòm mây” có phần thanh thoát, không gợi được sự hiu quạnh của cảnh.

Nét vẽ hiện đại còn được thể hiện quan tâm trạng của người tù. Ở đây không phải là cánh chim bay bình thường mà là cánh chim bay mỏi mệt (quyện điểu), có thể có nhiều chòm mây nhưng khi đi vào thơ Bác chỉ còn lại chòm mây cô đơn. Dường như cánh chim cũng mỏi mệt sau một ngày bay đi kiếm ăn về rừng tìm nơi ngủ cũng như người tù mỏi mệt sau một ngày lê bước trên đường xa cần chỗ nghỉ chân. Chòm mây cô đơn như tâm trạng của con người nơi đất khách đang nhớ về quê hương. Vẻ đẹp tâm hồn Bác ở hai câu thơ đầu trước hết là lòng yêu thiên nhiên.

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người cũng tìm đến thiên nhiên trong sự hòa hợp. Giữa cảnh và người có sự cảm thông hòa hợp.

Vẻ đẹp tâm hồn Bác còn là tấm lòng nhớ nước thương dân. Trong hai câu thơ đầu cảnh và tâm trạng đều phảng phất buồn. Buồn vì Người đang xa Tổ quốc, nhớ tới đồng chí đồng bào, bao công việc cách mạng đang chờ có Bác vậy mà Người cứ bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Tâm trạng ấy lại gặp cảnh núi rừng khi chiều tối không buồn sao được. Tâm hồn Bác mang vẻ đẹp của một tấm lòng luôn gắn bó với cuộc đời. Hình ảnh cánh chim, chòm mây trong thơ Bác gợi ta nhớ đến thơ Lý Bạch đời Đường:

“Chim bầy vút bay hết

Mây lẻ đi một mình”

(Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn)

Cánh chim trong thơ Đường của Lý Bạch bay vút vào không gian, như tan biến vào cõi vĩnh hằng. Cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng thái từ bay sang nghỉ để rồi lại tiếp tục cái vòng tuần hoàn của sự sống. Một con người luôn hướng tới cuộc sống thì không chỉ cảm nhận cảnh núi rừng hiu quạnh mà còn nhận ra nơi xóm núi vẻ đẹp của cuộc sống con người. Chính vì vậy, hai câu thơ sau có sự chuyển hướng bất ngờ mà vẫn tự nhiên:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Cảnh trong thơ Bác vừa mang vẻ đẹp cổ điển, vừa mang nét vẽ hiện đại. Trong thơ xưa, dưới cánh chim ngàn mây nổi thường xuất hiện hình ảnh những ẩn sĩ, những đạo sĩ. Trong thơ xưa, cảnh chiều tối vẫn thấp thoáng bóng người:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua đèo ngang- Bà Huyện Thanh Quan)

Hay trong thơ của Liễu Tông Nguyên vẫn có một ông lão ngồi một mình câu cá: “Độc điếu Hàn Giang tuyết”. Trong thơ Bác tuy cũng xuất hiện những cô sơn nữ nhưng là người lao động với công việc hàng ngày tuy vất vả mà vẫn ấm cúng. Hình ảnh ấy đã mang đến cho bức tranh cuộc sống nơi xóm núi một nét vẽ hiện đại. Hình ảnh cô em xóm núi xay ngô tối đã đem đến cho bức tranh buổi chiều tối một vẻ đẹp khỏe khoắn lạc quan. Đặc biệt là hình ảnh “lò than rực hồng” đã trở thành trung tâm, tâm điểm của bức tranh. Chính hình ảnh này đã làm cho bức tranh cuộc sống không còn u tịch, tĩnh lặng như những bức họa về cuộc sống trong thơ cổ. Chữ “hồng” đã trở thành nhãn tự của bài thơ. Một chữ “hồng” mà đem đến ánh sáng, hơi ấm, niềm vui để xua tan bóng đêm, không khí lạnh và nỗi buồn hiu quạnh. Bút pháp nghệ thuật của Bác ở hai câu cuối có một nét đặc sắc rất đáng lưu ý. Trong nguyên văn chữ Hán Bác không dùng từ nào nói về tối nhưng vẫn gợi lên được thời gian chuyển từ chiều đến tối một cách tự nhiên. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật dùng ánh sáng để gợi tả bóng tối. Lò than rực hồng từ trước nhưng khi trời còn sáng nhìn chưa rõ, khi bóng đêm buông xuống thì ánh lửa lò than bỗng rực rỡ hẳn lên. Bản dịch đã đưa thêm vào một chữ tối làm mất đi khá nhiều vẻ đẹp của thơ Bác. Giữa câu 3 và câu 4 có những cụm từ lặp lại theo hình thức đảo: “ma bao túc” và “bao túc ma hoàn”. Hình thức này đã tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên sự luôn chuyển của thời gian.

Trước cảnh cuộc sống con người nơi xóm núi, nhà thơ dạt dào cảm xúc. Qua cảm xúc của Bác người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Vẫn là vẻ đẹp của tấm lòng yêu đời nhưng ở hai câu thơ sau có điều thật cảm động. Hai câu thơ ghi lại cảnh cuộc sống gia đình nơi xóm núi điều đó chứng tỏ trên bước đường hoạt động cách mạng, một con người hi sinh tất cả vì dân vì nước thì trong trái tim vẫn có một khoảng tâm trạng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Bác ở hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”. Tâm hồn Bác còn là tâm hồn lạc quan nhân hậu. Hình ảnh lò than rực hồng là cảnh thực nhưng thể hiện tấm lòng lạc quan của Bác. Nếu một tâm hồn không hướng về ánh sáng thì không thể nào ghi lại được hình ảnh ngọn lửa lò than rực hồng đẹp đến thế, sáng đến thế đưa vào thơ. Bài thơ viết ở thời điểm khi chiều tối mà như ta đã nói đằng sau lưng là một ngày đi đường vất vả có khi tới 53 cây số một ngày, trước mặt lại là những gian lao nguy hiểm mới đang chờ, lại đói rét, lại muỗi rệp. Thơ viết trong hoàn cảnh ấy nếu xuất phát từ cảnh ngộ cá nhân thì chỉ có thể là buồn. Nhưng ở bài thơ Chiều tối, thơ Bác lại chuyển từ buồn sang vui. Điều này chỉ có thể giải thích những vui buồn sướng khổ của Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ cảnh ngộ cá nhân mà còn xuất phát từ cuộc sống của người khác. Bác đã quên cảnh ngộ của người tù để vui với niềm vui cuộc sống nơi xóm núi. Vì vậy, có thể nói bài thơ Chiều tối đã thể hiện một tấm lòng nhân đạo tới mức quên mình.

Như vậy, bài thơ chỉ có bốn câu song đã thể hiện rõ nét chất thép trong vẻ đẹp tâm hồn Bác. Đồng thời, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại. Đây chính là một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp nghệ thuật thơ chữ Hán Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, thơ Bác không xa vào sự cũ kĩ về bút pháp, sự đơn điệu về hình ảnh, sự chuyển tải hiệu quả những biểu hiện về vẻ đẹp tâm hồn Bác tuy ở hoàn cảnh gian khổ tù đày nhưng Người luôn hướng về thiên nhiên và cuộc sống con người với sự đồng cảm, đồng điệu và quên đi hoàn cảnh riêng của mình. Đó chính là tinh thần thép vượt lên trên hoàn cảnh tù đày của bậc “Đại nhân- Đại trí- Đại dũng” Hồ Chí Minh.

BÀI MẪU SỐ 3:

Đã từ lâu, chiều muộn luôn là khởi nguồn cho cảm hứng thi ca của nhiều thi sĩ. Trong đó không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – dưới tư cách là một nhà thơ – với một phong cách “thơ chiều” hoàn toàn khác biệt!

Có thể thấy, ngay từ tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), Người đã không ít lần rung động trước vẻ đẹp gợi cảm của cảnh chiều buông để rồi cho ra đời những áng thơ bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – bài thơ được sáng tác trong thời gian bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một áng thơ tuyệt bút bởi nó không chỉ đẹp ở ý thơ mà còn đẹp trong tài hoa và nhân cách sáng ngời của Hồ Chủ tịch:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Dịch nghĩa:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng.

(Nam Trân dịch)

Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc.

Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” – những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay – vào bài thơ như một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thời gian. Tất cả tạo nên một phông lớn làm nền cho cảnh chiều.

“Cánh chim” vốn là hình ảnh không mấy xa lạ với thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi khi nhìn thấy cánh chim bay về rừng lại làm người ta liên tưởng về một buổi chiều muộn nhiều hơn. Chất ước lệ càng được nâng cao khi các nhóm từ “Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm” thường được sử dụng trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, đại thi hào Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh chút chuyển động của cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Hay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi”. Hoặc với Huy Cận, bóng chiều như đang sà xuống cùng cánh chim đang nghiêng dần về phía cuối trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa”… Dường như với thi nhân, cảnh chiều “không thể hoàn thiện” nếu thiếu cánh chim. Nhưng qua đây ta cũng thấy được một điều: thơ văn xưa nhắc đến “cánh chim” thường chỉ như một chi tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả cảnh chiều cũng như gợi cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch

Hay:

“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên

Cánh chim “phi tuyệt”, “phi tận” trong thơ Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên khiến ta có cảm giác tất cả như đang rơi vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, mang một ý niệm siêu hình. Đó dường như đã trở thành “lối mòn”, một cấu trúc không thể thay thế trong thơ văn cổ. Nhưng vượt qua rào cản ấy, Bác đã đưa cánh chim của chính mình ra khỏi thế giới siêu hình để trở về với thực tại:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ.

Không còn mang tính quan sát từ trạng thái bên ngoài (hoạt động “bay”), cánh chim trong thơ Bác là sự cảm nhận trạng thái từ bên trong, một sự cảm nhận của con người hiện đại dựa trên ý thức sâu sắc của cái “tôi” cá nhân trước ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu thơ cho ta thấy sự tương đồng, gần gũi, hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật, thiên nhiên: Suốt một ngày rong ruổi khắp nơi kiếm ăn cánh chim đã mỏi đang bay về tổ ấm để nghỉ ngơi, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước đường trường và cũng đang khao khát tìm được một nơi để dừng chân nghỉ tạm. Chính sự đồng điệu đến tuyệt vời của người tù với cánh chim đã làm nên hình tượng mới mẻ của thi ca – “quyện điểu”. Cánh chim giờ đây đã thực sự có phương hướng, điểm dừng cũng như mục đích bay rõ ràng. Từ đây, ta nhận thấy cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống của Bác. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương cuộc sống, cảm quan của Bác cũng chính là cảm quan nhân đạo.

Cũng mang phong cách Đường thi nhưng câu thơ thứ hai của bài thơ lại gợi chút cảm giác cô đơn, quạnh quẽ bởi hình ảnh của “cô vân”. Tuy nhiên, bản dịch dù đã dịch khá hay và uyển chuyển vẫn bỏ sót chữ “cô” và không thể hiện hết ý nghĩa của từ “mạn mạn” do vậy làm mất đi ý thơ vốn rất sâu sắc của nguyên tác. Trong thơ xưa, chòm mây thường gợi lên vẻ cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không: “Cô vân độc khứ nhàn” (Lí Bạch). Còn với “Chiều tối”, chòm mây không chỉ đơn thuần là “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” mà cũng là một chòm mây lẻ loi, cô độc, chầm chậm trôi giữa bầu trời. Câu thơ làm ta nhớ tới những áng mây trong thơ Thôi Hiệu: “Bạch vân thiên tải không du du” (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – Tản Đà dịch), áng mây trắng mang hơi hướng của sự vĩnh hằng trong khi “chòm mây trôi nhẹ” làm sống dậy bao nỗi khắc khoải, mong chờ. Nhưng trên hết, chính hình ảnh “cô vân” đã tạo nên chiều cao, chiều sâu của bức tranh ngoại cảnh. Núi rừng Quảng Tây trong chiều thu như hiện ra trước mắt người đọc với bầu trời cao rộng, trong trẻo, êm ả. Chòm mây lẻ loi giữa bầu trời bao la, rộng lớn, trải dài đến vô tận càng khiến cho cảm giác trống trải, cô đơn được nhân đôi. Vì sự cô đơn ấy không chỉ của chòm mây lẻ bóng, mà còn là tâm trạng của người đang ngắm nó.

Chỉ với những hình ảnh thơ rất đỗi quen thuộc, người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh đã vượt qua khuôn khổ thường tình của thi ca cổ điển để khắc họa bức tranh chiều trên đất khách quê người. Nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống vô hạn của Người. Nhưng phảng phất đâu đó trong hai câu thơ là một nỗi buồn thấm thía. Cánh chim bay tìm đường về tổ như một sự nhắc nhở nhẹ nhàng về giấc mơ đoàn viên. Người tù đang phải chịu cảnh tù đày nên ắt hẳn luôn hướng về quê hương, gia đình, nhìn thấy cánh chim phía cuối trời, cái mong ước nhỏ nhoi ấy lại càng trào dâng, mãnh liệt khiến ai dù không mấy mặn nồng với quê hương cũng phải đau đớn, huống hồ Bác là một người yêu nước tha thiết. Thêm vào đó, bóng mây chầm chậm trôi về phía trời xa gợi niềm xót xa cho thân phận nổi nênh, lênh đênh, trôi dạt giữa nơi đất khách càng làm cho khát vọng tự do được bay như chim, trôi như mây giữa trời của người tù trở nên mạnh mẽ, dứt khoát hơn bao giờ hết. Bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh đã thực sự hoàn làm một. Cũng từ đây ta thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong nhân cách HCM – đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người.

Không dừng lại ở việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, Bác bắt đầu đi vào xây dựng hình tượng trung tâm cho bức tranh. Bút pháp cổ điển giờ đây được thay thế bằng những hình ảnh mang phong cách hiện đại. Bức tranh không còn đơn điệu mà như được thổi hồn bởi sự xuất hiện của con người – cô gái xay ngô – và bếp lửa hồng. Khung cảnh thiên nhiên nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người. Đó là một luồng gió mới làm thay đổi toàn bộ “cục diện” của bức tranh:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Giữa rừng núi hoang sơ, hẻo lánh, trong lúc nỗi buồn thầm kín đang bủa vây lấy tâm trí thì đập vào mắt người tù là hình ảnh “cô em xóm núi” đang “xay ngô tối” cắt ngang mọi dòng suy nghĩ lẫn cảm xúc. Khi niềm hy vọng trong việc tìm kiếm điểm dừng chân sau một ngày đi đường mệt mỏi đang dần vụt tắt thì “xóm nùi” hiện ra trước mắt người tù, hệt như m��t giấc mơ, khiến bao mệt mỏi, lo toan dường như biến mất. Cái vẻ bình yên của xóm núi càng khiến lòng người thêm ấm áp bởi sự hiện diện của người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ trong tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều, tạo nên sự tươi vui, khỏe khoắn cho cả bài thơ. Đáng chú ý là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với người thiếu nữ trong cổ thi. Nhiều thi nhân xưa thường ví người thiếu nữ như “Liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ cần biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”

(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Trong khi người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Bên cạnh đó, cùng đề cập đến con người nhưng trong thơ xưa, con người xuất hiện mà thiếu hẳn sức sống, dường như chỉ để tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên nhiên, mang một nỗi niềm hoài cổ, sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên song chợ mấy nhà”

(“Qua Đèo Ngang” – Bà Huyện Thanh Quan)

Nhưng “Chiều tối” với sự có mặt của cô gái xay ngô thực sự đã đem lại hơi ấm, hạnh phúc cho không chỉ người tù đơn độc mà còn cho cả người đọc trước cái không khí âm u, heo hút của núi rừng. Phải chăng vẻ đẹp lung linh của bức tranh là do sự khỏe khoắn ấy tạo nên.

Ở nguyên tác, Bác không cần dùng đến chữ “tối” như bản dịch nhưng vẫn cho ta thấy được sự vận động không ngừng của thời gian: từ chiều tà đến chiều tối. Đó chính là nhờ sự hiện diện của hình ảnh lò than hồng. Bởi phải vào thời điểm như thế người ta mới thấy hết sự rực hồng của than trong lò, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối” nhưng ý nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Hình ảnh lò than rực hồng trong đêm tối không chỉ làm nổi bật thêm tư thế xay ngô của cô gái mà hơn hết, ánh than hồng đã xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lấy vạn vật mà theo nhà thơ Hoàng Trung Thông – “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác”- NXB Tác phẩm mới 1977, trang 231 đã nhận xét thì: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “ hồng” trong nghệ thuật thơ Đường, người ta gọi là “thi nhãn” (con mắt thơ) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa…” Cũng vì thế mà hình ảnh lò than hồng có một sức lôi cuốn đặc biệt đối với mỗi người.

Thoát khỏi văn phong cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều chất “bạch thoại”, mộc mạc, đời thường và điều đó thể hiện rõ ở chữ “bao túc” xuất hiện đến hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà không hề để ý đến thời gian. Cứ hết túi ngô này (ma bao túc) rồi lại đến túi ngô khác (bao túc ma) để rồi đến khi cô xay ngô xong (bao túc ma hoàn) thì mới nhận ra “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng). Qua hình ảnh trẻ trung mà bình dị, hiện đại ta thấy được niềm xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ trước nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống con người lao động. Sự lặp đi lặp lại của công việc xay ngô như một vòng quay nặng nề, luẩn quẩn của con tạo. Tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù họ không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt cũng theo đó mà chân thành hơn bao giờ hết. Song trên một phương diện nào đó, câu thơ một lần nữa khơi gợi lại cảm giác về sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Đó như một cách nhấn mạnh nỗi lòng thườn trực trong trái tim Bác. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người. Nhưng dù là ý nghĩa nào chăng nữa thì cũng đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía: “Chỉ biết quên mình cho hết thảy” hay: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Chúng ta nhận ra “Chiều tối” mang những vần thơ quên mình vĩ đại.

Dẫu đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng Bác vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của cảnh vật, con người bình thường khác mà Người tình cờ bắt gặp trên đường đày ải. Bị trói, bị tù đày, bị giải đi ” Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày” nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than vãn. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.

Trên phương diện văn học, “Chiều tối” vẫn luôn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của bài thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Đây là một tác phẩm có thể nói là đẹp về nhiều mặt và thực sự là một bông hoa sáng ngời trong thế giới thơ HCM. Mang phong cách cổ điển kết hợp với “hơi thở hiện đại”, bài thơ là bức chân dung tự họa, phản ánh con người tinh thần và nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Bác. Như những “vầng sáng” của lò than hồng trong câu thơ cuối, bài thơ thực sự trở thành một luồng sáng khai nguồn cho một phong cách thi ca hiện đại trữ tình, hoàn toàn mới mẻ, thoát ly với văn phong cổ điển. Và hơn cả, bài thơ là một điển hình mang dáng dấp nhân cách HCM bởi sự gởi gắm tất cả tâm tư, tình cảm của Bác trong “sâu thẳm” nó. Đó cũng chính là những yếu tố làm nên vẻ đẹp có “một không hai” của bài thơ.