Soạn bài Sóng Xuân Quỳnh

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

MỤC TIÊU BÀI HỌC:

- Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn và niềm khao khát mãnh liệt về hạnh phúc của người phụ nữ trong tình yêu.

- Nắm được nghệ thuật kết cấu, xây dựng hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu của bài thơ

I. Tìm hiểu chung

1. Tiểu dẫn

- Xuân Quỳnh sinh năm 1942 và mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Quê làng La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Xuất thân trong một gia đình công chức. Mẹ mất sớm, Xuân Quỳnh ở với bà nội.

- 13 tuổi, Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa đoàn văn công Trung ương, Biên tập báo Văn nghệ, biên tập viên NXB Tác phẩm mới, Uỷ viên BCH Hội nhà văn Việt Nam khoá III. Xuân Quỳnh mất đột ngột cùng chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ vì tai nạn giao thông tại Hải Dương (chiều 29/4/1988).

- Tác phẩm gồm có:

+ Tơ tằm, chồi biếc (in chung với Cẩn Lai) (1963)

+ Hoa dọc chiến hào (1968)

+ Gió Lào cát trắng (1974)

+ Lời ru trên mặt đất (1978)

+ Tự hát (1984)

+ Sân ga chiều em đi (1984)

+ Hoa cỏ may (1989) (sau khi nhà thơ mất)

Một số tập dành riêng cho thiếu nhi Truyện: Bến tàu trong thành phố, Bầu trời trong quả trứng, Vẫn còn ông trăng khác.

- Truyện viết cho thiếu nhi mang đến cho các em những tình cảm trong trẻo, trìu mến, nhân hậu và cái nhìn hỏm hỉnh thông minh.

- Xuân Quỳnh được xem là một trong những người viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau 1945. Đó là tình yêu vừa nồng nàn, sôi, say đắm, vừa tha thiết dịu dàng, vừa giàu trực cảm, vừa lắng sâu trải nghiệm suy tư. Cái tôi của thi sĩ là cái tôi thành thật:

Không sĩ diện đâu nếu tôi yêu được một người

Tôi sẽ yêu anh hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm

Tôi yêu anh dẫu vạn lần cay đắng…

- Xuân Quỳnh thể hiện trong thơ khát vọng sống, khát vọng yêu và đi liền với nó là những dự cảm về sự biến suy, phai bạc:

+ “Bây giờ yêu mai có thể xa rồi”

+ “Mùa thu hoa vẫn vàng như thế

Chỉ em là đã khác với em xưa”

- Thơ Xuân Quỳnh nổi bật ở vẻ đẹp nữ tính. Đó là thiên chức làm vợ, làm mẹ với tâm hồn tinh tế, chăm lo, tạo dựng đời sống bình yên. Thơ Xuân Quỳnh cũng là thơ tự bộc bạch giãi bày, mong được nương tựa, chở che, gắn bó.

2. Bài thơ Sóng

a. Hoàn cảnh và mục đích sáng tác

- Bài thơ viết năm 1967. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu. Mặt khác cũng thấy được ý thức của cái tôi bên cạnh cái ta chung.

- Tác giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá. Cảm xúc thơ do vậy vừa sôi nổi mãnh liệt, vừa gợi tới chiều sâu của sự triết lí.

b. Chủ đề

Sóng và em là hai hình tượng sóng đôi, để từ đó những khám phá về sóng, em thấy mình. Tình yêu trong em là sự vươn lên cái cao cả, lớn lao, là nỗi nhớ thương, thuỷ chung son sắt. Đồng thời là khát vọng mãnh liệt của tình yêu, nỗi lo âu giữa cái hữu hạn của đời người với cái vô cùng, vô hạn của thời gian.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Cấu trúc bài thơ

- Bài thơ có cấu trúc song hành giữa sóng và em. Sóng cũng là em mà em cũng là sóng.

+ Sóng nước xôn xao, triền miên vô tận, gợi sóng lòng em tràn đầy khao khát trước tình yêu đôi lứa.

+ Cả bài thơ đoạn nào cũng nói về sóng, miêu tả nhiều về sóng.

* Giàu biến thái (dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ…). Đó là

* Sóng có tính cách phức tạp nhưng mang vẻ thống nhất của tự nhiên.

Đó là sinh ra từ biển. Sóng là nỗi khát khao của biển, là sự hoà hợp giữa biển và bờ. “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vời cách trở”.

+ Âm điệu bài thơ cũng là âm điệu của sóng

* Thể thơ năm chữ tạo ra giai điệu sóng vỗ

* Hoà trộn âm thanh của sóng vỗ với tâm trạng người con gái đang yêu. Đó là khao khát, nhớ thương, hờn giận. Sóng cũng là em vì lẽ đó.

2. Nhận thức về bản thân qua mỗi khám phá về sóng

- Hai khổ đầu:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ ...

Bồi hồi trong ngực trẻ

Hai câu đầu: “Dữ dội... lặng lẽ” tác giả tạo ra tiểu đổi để diễn tả biến thái phức tạp của sóng cũng là tâm trạng của em. Khi tình yêu đến với người con gái, họ có thể sôi nổi, cười, nói, hát suốt ngày. Nhưng cũng có lúc lặng lẽ trong suy tư. Điều đáng nhớ là khát vọng tình yêu, nhất là tình yêu đôi lứa bao giờ cũng thường trực trong trái tim tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa

...

Bồi hồi trong ngực trẻ

Điều đáng nói nhất ở hai khổ thơ này là sự chủ động của người con gái khi yêu:

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Chủ động không phải là ngỏ lời mà vươn tới cái cao cả, cái lớn lao.

- Khổ 3 và 4

Trước muôn trùng sóng bể

.....

Khi nào ta yêu nhau

“Em nghĩ” hai tiếng ấy lặp lại như là sự kh��m phá, tìm tòi. Em nhận thức được “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng gió từ đâu? Nào ai biết. Người ta có thể chứng minh nguồn gốc của gió qua ngành khoa học. Nhưng không thể giải thích được nguồn gốc của tình yêu. Có nhà thơ tự bộc bạch:

Anh yêu em vì sao không biểt rõ

Chỉ biết yêu em, anh thấy yêu đời

Như chim bay tỏa hút khí trời

Như ruộng lúa uống dòng nước ngọt

Và cũng có người:

Anh yêu em như yêu đất nước

Vất vả gian lao tươi thắm vô ngần

Họ yêu nhau. Nhưng hỏi tình yêu bắt đầu từ đâu và tình yêu là gì thì có bao nhiêu cách trả lời.

Nhân vật em trong bài thơ của Xuân Quỳnh cũng cảm nhận thấy điều ấy. Nguồn gốc tình yêu rất lạ lùng. Nó lạ lùng bí ẩn nhưng cũng rất tự nhiên. Không ai có thể tìm thấy câu trả lời tình yêu bắt đầu từ đâu? Tình yêu hấp dẫn là ở chỗ đó. Thơ Xuân Quỳnh sâu sắc và tế nhị vì khát vọng về tình yêu thực sự là nhu cầu tự nhận thức và khám phá.

- Ba khổ thơ (5, 6, 7)

Con sóng dưới lòng sâu

....

Dù muôn vời cách trở

- Khổ năm đọng lại một chữ “nhớ”

Nhớ:

+ Gắn với không gian dưới lòng sâu, trên mặt nước

+ Gắn với bờ

+ Không ngủ được

+ Đến anh

Một tiếng “nhớ” mà nói được nhiều điều. Em đã hoá thân vào sóng. Sóng đã hoà nhập vào tâm hồn em để trở nên có linh hồn thao thức. Hai câu thơ đọng lại điều sâu sắc nhất: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nhớ cả lúc tỉnh, cả trong vô thức.

Khổ 6, 7 mượn hình ảnh sóng vỗ vào bờ “Con nào chẳng tới bờ” để khẳng định tấm lòng son sắt thuỷ chung. Dù đi đâu vào Nam ra Bắc, em đều nghĩ tới anh, hướng về anh.

- Hai khổ 8, 9:

Cuộc đời tuy dài thế

...

Để ngàn năm còn vỗ

Khổ thơ thứ tám là khổ khắc khoải tự nhận thức về mình, về tình yêu và hạnh phúc trong cái qui luật muôn thuở của con người.

- Biển vẫn rộng, gió thổi, mây vẫn bay. Những hình ảnh này là biểu hiện sự nhạy cảm với cái vô hạn của vũ trụ. So với cái vô cùng, vô tận ấy, cuộc sống con người thật ngắn ngủi. Một tiếng thở dài nuối tiếc. Nhịp thơ lúc này như lắng xuống, hình ảnh thơ mở ra qua các từ (đi qua, biển dẫu rộng, bay về xa). Nhận thức, khám phá, thơ Xuân Quỳnh mang đến những dự cảm. Đó là nỗi lo âu, sự trăn trở bởi hạnh phúc hữu hạn của đời người giữa cái vô cùng, vô tận của thời gian.

- Suy nghĩ như thể, thơ Xuân Quỳnh không dẫn người ta đến bế tắc, buồn chán mà thành khát vọng:

“Làm sao được tan ra

...còn vỗ”

Khao khát tình yêu của mình hoà trong tình yêu của mọi người. “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế không bao giờ cô đơn.